Chương 3: Về Nhà
Sớm mai, bầu trời vẫn còn trong trạng thái xám xịt, những mái ngói xanh và tường trắng ẩn hiện trong màn sương mờ ảo, giọt nước mưa vẫn còn đọng ở góc mái.
Sau cơn mưa, Lâm An như một bức tranh thủy mặc chưa kịp khô.
Thi Tuyên ngồi trước chiếc gương đồng, để Lục Thủy thay cô trang điểm. Cả đêm qua cô trằn trọc, ngủ không ngon giấc, nét mặt bây giờ có phần tiều tụy.
“Phu nhân, bẩm báo, lão nô đã chọn được hai cô hầu gái đến để bà xem qua,” bà Tôn kính cẩn bước vào, nhỏ giọng báo cáo.
Thi Tuyên chỉ gật đầu đáp lời, nhớ lại chuyện đêm qua cô đã dặn bà Tôn chọn hầu gái cho em gái.
Hai cô hầu bên cạnh em gái đều được mua từ khi còn nhỏ – một cô tên Lưu Phong mới mười tuổi, một cô là Hồi Tuyết mười một tuổi.
Nói là hầu gái nhưng thật ra cũng giống bạn đồng trang lứa, thường ngày chỉ giúp giải trí cho các cô bé, không thể đảm nhiệm những công việc quan trọng.
Ngày trước, trong phủ Thi, chủ nhân ít, nên toàn bộ gia nhân đều dồn tâm huyết chăm sóc cho hai chị em. Đặc biệt là cô em Thi Họa, luôn được nâng niu như viên ngọc quý trong nhà.
Dưới trướng sợ em gái bị tổn thương, nhưng ở phủ Thẩm chuyện khác hẳn, nên cô nhất định phải tìm hai người trung thành, nhanh trí bên cạnh em cho an lòng.
Bà Tôn ra hiệu hai cô hầu đứng ngoài cửa vào trong, hai người lễ phép đứng trước mặt Thi Tuyên.
Bà Tôn làm việc luôn chắc chắn nên Thi Tuyên rất tin tưởng.
Cô hỏi vài câu đơn giản, hai cô hầu trả lời khá ổn. Cô đặt tên cho họ: một là Khinh Vân, một là Tức Nguyệt. Sau đó dặn Lục Thủy dẫn họ đến lầu Thập Nguyệt, nơi Thi Họa ở.
Bà Tôn nhận lại chiếc lược từ tay Lục Thủy, tiếp tục chải tóc cho Thi Tuyên. Nhìn sắc mặt phu nhân không tốt, bà không nhịn được mà khuyên: “Đại nhân đã đồng ý để tiểu thư hai ở trong nhà, phu nhân cũng nên yên tâm.”
Trong ánh mắt Thi Tuyên hiện lên chút ưu tư, cô không giấu diếm mà nói thật: “Từ khi cha qua đời, giờ chỉ còn tôi và A Noãn bên nhau. Bên nhà ngoại không còn ai có thể dựa vào. Điều tôi lo lắng là, nếu sau này phu quân lâm hạnh đón một người thiếp xuất thân danh môn, tôi phải ứng phó ra sao? Nếu thiếp ấy lại được may mắn sinh được trưởng tử…”
Bà Tôn nghe vậy thở dài, an ủi: “Đại nhân không phải người tham vọng tình cảm cá nhân. Nhìn suốt những năm qua, hậu viện vẫn luôn yên bình, thanh tĩnh. Ngay cả khi đại nhân một mình ở Định Châu hai năm, cũng chưa nghe có bóng hồng cưới kề bên.”
Thi Tuyên nhẹ lắc đầu, nét mặt trầm trọng, chậm rãi nói: “Phu quân phẩm hạnh chính trực, luôn thận trọng, chưa từng có hành vi nông nổi. Nhưng phủ Hầu sao có thể dễ dàng bỏ qua? Chắc chắn sẽ nhiều lần gây khó dễ. Việc con cái liên quan đến truyền thừa nhà họ, phu quân ở giữa e khó lòng toàn vẹn...”
“Ngày trước cha tôi cũng vậy. Mẹ tôi chưa sinh được con trai trưởng, bà nội liền lấy cớ bất hiếu, ép cha tôi nhận một bà thiếp vào hậu viện. Không ngờ kẻ thiếp ấy lòng tham lớn, thấy mẹ tôi mang thai liền ra tay hãm hại, cho uống thuốc khiến thai nhi chết yểu, em trai tôi đã thành hình đủ năm tháng rưỡi rồi, vậy mà mất trắng...”
Bà Tôn hiểu rất rõ Thi Tuyên đã chứng kiến mẹ bị thiếp hại, trong lòng ghét cay ghét đắng những người thiếp.
Thế nhưng từ xưa đến nay đàn ông có thiếp là chuyện thường, hiện tại cách duy nhất là sớm có con để củng cố địa vị.
Chỉ là ông chủ mới mất chưa lâu, giờ nghĩ đến chuyện ấy thì cảm giác vừa xúc động vừa chưa thích hợp.
Luật pháp nước Vệ quy định ông bà và cha mẹ mất, con chưa thành hôn phải chịu tang ba năm. Đã thành thân thì chịu tang nửa năm.
Dù vậy, phụ nữ đã có chồng giữ tang không khắt khe, nhưng nếu trong thời gian tang mà có thai cũng dễ bị dị nghị là bất hiếu.
Bà Tôn suy nghĩ rồi nói: “Phu nhân đang trong tang, không nên có thai. Còn khoảng bốn tháng nữa là hết, phu nhân nên nghĩ cách giữ lòng đại nhân, tranh thủ sớm có con.”
Nghe vậy, Thi Tuyên đỏ mặt, hơi ngại ngùng: “Chuyện này... tôi làm sao dám...”
Bà Tôn cười nhẹ: “Chuyện vợ chồng, vui vẻ trong phòng the, phu nhân chủ động một chút có sao đâu...”
“Chị ơi.”
Bà Tôn vội ngừng lời, cài chiếc trâm trắng cuối cùng lên tóc cho Thi Tuyên.
Thi Họa cúi đầu bước vào, vẻ mặt hơi buồn.
Thi Tuyên đứng dậy, vuốt đầu em, nhẹ giọng nói: “Xe ngựa đã chuẩn bị sẵn, chị dẫn em về nhà thắp hương tưởng nhớ cha.”
Thi Họa gật đầu, lặng lẽ nắm tay chị.
Phủ Thi nằm ở phía nam thành Lâm An, ngồi xe ngựa khoảng một tiếng là đến nơi. Thi Họa mở một góc màn trong xe, buồn bã nhìn ra phố phường.
“Dùng điểm tâm sáng chưa?” Thi Tuyên vừa hỏi vừa mở hộp thức ăn bên cạnh: “Bà Tôn làm bánh đậu hạnh nhân, món em thích.”
Thi Họa đặt lại màn xuống, lắc đầu, nét mặt mệt mỏi.
“Chị ơi, dù cha đã mất hơn hai tháng, em vẫn thấy như một giấc mơ, như thể cha còn ở lại.”
Thi Tuyên không cầm được nước mắt, ôm em vào lòng, nghẹn ngào: “A Noãn, cha thương em nhất, không muốn em chịu một chút đau khổ. Cha đi rồi, sau này chị sẽ luôn bảo vệ em.”
Thi Họa ngoan ngoãn gật đầu trong lòng chị.
Trước cổng phủ Thi, chiếc đèn lồng trắng nhẹ nhàng đong đưa trong gió, làm cảnh vật ảm đạm càng thêm cô liêu.
Phủ Thi rộng lớn giờ đây không còn rực rỡ như trước. Đa số gia nhân đều bị Thi Tuyên thải, chỉ còn vài người con nuôi ở lại quản lý.
Hai chị em quỳ trên đệm trước nhà thờ gia tộc, thầm lặng dâng lễ tưởng nhớ. Thương tâm nhất chính là lúc mới nghe tin cha mất, giờ dù buồn vẫn cầm lòng được.
Sau lễ, Thi Tuyên dẫn em đến kho chứa đồ trong phủ.
Cha cô, Thi Kính Chương làm quan hơn ba mươi năm, tài sản khá nhiều. Mẹ lại là con gái trưởng nhà họ Lăng nổi tiếng vùng Lăng Châu, sính lễ rất giá trị.
Do đó, kho chứa phủ Thi có thể nói là chôn vàng lấp bạc không sai chút nào.
Thi Tuyên chỉ vào dãy hộp gỗ bên trong: “Đó là sính lễ của mẹ khi về nhà chồng ngày trước. Lúc chị lấy chồng, mẹ chia nửa cho chị, nửa còn lại là của em.”
Rồi cô chỉ sang dãy hộp gỗ bên kia: “Đó là thưởng phong quan của cha trong nhiều năm làm quan. Lúc chị kết hôn, cha cũng trao cho nhiều đồ. Phần còn lại này cũng là của em.”
Dắt tay em đến phần sâu bên trong kho, nơi đặt nhiều bình phong, giá viết và đồ nội thất khác, đều phủ bằng vải mỏng.
Thi Họa để chị nói từng món, nhưng không tập trung nghe, chỉ cảm giác mọi chuyện dạo gần đây như một giấc mơ không thực.
“Chìa khóa chị giữ giúp em. Anh rể tôi đang trực ở bộ Hình, kẻ trộm cũng chẳng dám đến. Khi em trưởng thành, chị sẽ giao lại cho em. Lúc em kết hôn, chị còn sẽ đưa thêm nữa…”
“Chị ơi, em muốn đến xem phòng làm việc của cha.”
Thi Tuyên gật đầu, vuốt nhẹ mớ tóc mai trên trán em, dịu giọng: “Sau bữa trưa chúng ta sẽ đi. Em cứ đi đi, nếu ăn cơm mà chưa về, chị sẽ sai Lục Thủy đi tìm.”
Thi Họa vừa đi, Thi Tuyên cũng rút lui khỏi kho. Bà Tôn không nhịn được thắc mắc: “Phu nhân sao lại vội nói với tiểu thư hai? Cô ấy còn nhỏ, có thể sẽ không hiểu đâu.”
“Phải để em ấy biết thôi,” Thi Tuyên đóng cửa kho rồi đi, nói tiếp: “A Noãn bẩm sinh thông minh hơn bạn cùng tuổi. Từ khi bà nội mất, mẹ cũng qua đời, cha thường xuyên mang em bên mình, dù lúc làm việc hay tiếp khách, đều không giấu diếm em chuyện quan trọng. Nên em ấy phần nào hiểu được những điều trong đời...”
“Đồng thời cũng phải biết vì sao người nhà Lăng dám giam giữ em ở hậu viện.”
Nói đến đây, Thi Tuyên dừng bước, căm phẫn: “Nhà ngoại đúng là giỏi tính toán! Thấy A Noãn mất cha mẹ từ nhỏ, giàu có lại đầy sức mạnh, họ muốn tàn phá toàn bộ! Muốn thôn tính tài sản thì thôi, lại còn định biến A Noãn thành… khụ…”
Bà Tôn vội tiến đến giúp cô hít thở, đồng thời tự trách mình nói quá nhiều khiến phu nhân tức giận.
Thi Tuyên vẫy tay, tựa vào cột hành lang, ra hiệu mình không sao. Đột nhiên cô nhìn lên chiếc đèn lồng trắng treo ở góc mái, nhớ đến thuở nhỏ của Thi Họa…
Năm ấy đêm giao thừa, phủ đầy rộn ràng khí thế. Quản gia chỉ huy bọn gia nhân treo đèn mới.
Một cậu hầu nhỏ tuổi không cẩn thận đánh rơi chiếc đèn lụa quý xuống đất, lập tức ngọn nến bắn cháy, làm rách chiếc đèn tinh xảo.
Khi Thi Tuyên dẫn em chơi trong sân, tình cờ chứng kiến. Cậu hầu sợ đến mức đứng chết trân, quên dập lửa.
Ngày tết mà làm hỏng đồ vật là điềm không may, lại còn đốt cháy vật may mắn. Quản gia tức giận, lao đến đánh trách cậu hầu.
Lúc đó, Thi Họa mới sáu tuổi hét lớn: “Dừng lại!”
Quản gia thấy cậu hầu phạm lỗi lại đúng lúc tiểu thư đứng đó, nổi giận đến mức đá mạnh vào chân cậu.
Cậu hầu đau đớn quỳ xuống, quản gia vội cúi chào xin lỗi Thi Họa.
Cô bé tiến lại, mày nhăn mắt nhìn quản gia, rồi nhìn xuống mảnh đèn vỡ, nói với cậu hầu: “Gia môn phúc hỷ, gia tăng thịnh vượng. Lời chúc hôm nay của tôi đã nhận!”
Nói xong, cô lấy trong hộc cột lưng túi bạc màu hoa sen đưa cho cậu hầu. Ánh mắt cong lên dịu dàng: “Này, đây là lì xì của em.”
Cậu hầu bất ngờ ngước lên, đôi mắt nâu tròn nhìn Thi Họa, chần chừ không nhận.
Cô bé nắm tay cậu, mỉm cười đặt bạc vào lòng bàn tay.
“Ha ha! Lời chúc gia môn phúc hỷ thật hay!” Thi Kính Chương bước tới, bế Thi Họa lên, trên mặt rạng rỡ niềm vui.
Thi Tuyên nhớ lại thời thơ ấu, lúc còn có bà nội, cha vì thương mẹ nên chưa từng có thiếp, mẹ cô vì không sinh con trai trưởng nên bà nội không vui, đã đem cô ra khỏi vòng tay mẹ, nuôi dưỡng tận tình.
Bà không chỉ dạy cô lễ nghi mà còn truyền thụ cách quản gia, thường nhắc nhở rằng một cô gái danh giá phải tuân theo ba từ bốn đức, mọi chuyện đều tôn kính chồng.
Cô khắc ghi lời bà, học rất giỏi, được bà khen ngợi.
Cha mẹ đối xử với cô cũng ân cần, nhưng so với em gái vẫn không giống.
Cha mẹ dành cho cô sự giáo dục đề cao phẩm hạnh và tài năng, mong muốn cô trở thành hình mẫu phụ nữ thục nữ; còn với em gái thì nuông chiều quá mức, để em tự do vô tư. Tình yêu đều sâu đậm nhưng trải nghiệm lại khác biệt.
Đề xuất Xuyên Không: An Phận Dưỡng Lão Chốn Vương Phủ