Logo
Trang Chủ Linh Thạch Tủ Truyện

Chương 190: Tiểu A Ca

Chương 190: Tiểu A Ca

Lâm Lực Hùng ngồi trước bàn làm việc, cúi đầu lau khóe mắt, thở ra một hơi nặng nề.

Dù đã ở tuổi gần đất xa trời, lưng ông vẫn thẳng tắp, không hề cong gập.

Tấm vải thô trong tay được ông trải phẳng trên bàn. Bàn tay với những khớp ngón chai sần, sạm màu, khẽ vuốt ve chữ "Xuyên" thêu bằng chỉ đen trên tấm vải.

Ánh mắt nặng trĩu của ông dừng lại trên chữ "Xuyên", nhưng dường như lại xuyên thấu về chiến trường hoang tàn, khốc liệt mà ông chẳng thể nào quên.

Non sông đổi thay, chính đạo thăng trầm.

Ông ngẩng đầu nhìn ra ngoài cửa sổ. Gió ấm khẽ thổi qua tán lá, tạo nên âm thanh xào xạc mơ hồ, và những ký ức xa xưa, mờ nhạt dần trở nên rõ nét.

Ngày ấy, trên đường rút lui, họ lại gặp một toán lính hậu cần cũng đang di tản. Ai nấy đều vác những gói đồ lớn, ông không còn nhớ rõ có bao nhiêu người.

Họ nói một thứ tiếng địa phương mà ông không hiểu.

"Mấy đứa ngốc này, sắp được về nhà rồi!"

"Về nhà có vợ con, có bếp lửa ấm cúng."

"Chẳng biết mẹ già ở nhà còn không?"

Lại có người đáp: "Về nhà tốt quá, về nhà tốt quá..."

"Ba anh em chúng tôi cùng ra đi, giờ về chỉ còn mình tôi, biết ăn nói sao đây..."

"Đại ca, tôi với cha tôi cùng ra trận, cha tôi đỡ cho tôi một nhát dao, giờ ông ấy chết ở đâu tôi cũng chẳng nhớ nữa. Mẹ tôi hỏi tôi phải làm sao đây?"

Từ những cuộc trò chuyện sôi nổi, đầy nhiệt huyết, đoàn quân dần trở nên im lặng như tờ.

Nhóm lính hậu cần ngồi bệt xuống đất, ai nấy đều lau nước mắt, khóc nức nở.

"Cha ơi..."

"Mẹ ơi..."

Có người định đưa tay lau nước mắt, chợt nhận ra mình đã mất cả hai cánh tay, đành cố sức nhún vai, mặc cho nước mũi, nước mắt giàn giụa khắp mặt.

Khi ấy, ông ngồi xổm đối diện với nhóm Hồng quân, nhìn một chú lính cao lớn cúi người đặt cậu bé trên lưng xuống đất. Ông nghe chú ấy nói với cậu bé: "Thằng nhóc con, lại chơi với thằng bé kia đi."

Chú lính cao lớn chỉ về phía ông, rồi ông thấy cậu bé đi về phía mình. Ông nhìn sang bên cạnh, thấy chú lính ấy lấy chiếc khăn trong túi vải ra lau nước mắt cho người lính Hồng quân cụt tay.

Sau đó, chú lính từ từ đứng dậy, cười mà mắt vẫn ướt: "Mấy thằng nhãi ranh này no bụng rồi phải không? Đánh xong trận rồi mà vẫn còn cái bộ dạng yếu đuối này, đứng dậy cho tao xem nào!"

"Đứa nào có người nhà chờ thì vui lên, đứa nào không có thì về kiếm vợ đi."

"Đánh trận mười mấy năm, cái mạng này coi như nhặt lại được, hãy sống thật tốt thay cho những đồng đội đã hy sinh."

"Phải không, mấy thằng nhãi ranh?" Tiếng cuối cùng vang lên sang sảng, cao vút.

Những người lính Hồng quân đang ngồi bệt dưới đất lau khô nước mắt, vừa khóc vừa đáp: "Vâng."

"Được thôi."

"Về kiếm vợ..."

Ông lắng nghe họ nói chuyện, trên mặt cũng nở nụ cười. Cậu bé đã đi tới nắm lấy tay ông. Cậu bé rất gầy, cao hơn ông nửa cái đầu.

Đương nhiên bản thân ông cũng rất gầy. Trẻ con sống sót được trên chiến trường đã là may mắn vô cùng, thức ăn không đủ, đa phần đều suy dinh dưỡng.

Ông và cậu bé nhìn nhau, ánh mắt dò xét. Ông thấy cậu bé khẽ mấp máy môi, định nói gì đó.

Đoàng!

Đoàng!

Đoàng!

Tiếng súng nổ liên tiếp khiến màng nhĩ ong lên chói tai, cảnh tượng hỗn loạn tột cùng.

Ông thấy chú lính vừa nói về nhà kiếm vợ, mắt vẫn mở trừng trừng không tin nổi, đổ sụp xuống đất. Màu đỏ bắt đầu lan tràn vô tận.

Cậu bé đang nắm tay ông lập tức kéo ông ngã xuống đất, nằm sấp. Cánh tay nhỏ gầy guộc của cậu che lấy vai ông.

Tiếng la hét, tiếng bước chân hỗn loạn vang lên. Khi ấy ông còn quá nhỏ, đôi mắt cứ trân trân nhìn chằm chằm vào chiến trường đỏ máu trước mặt.

Ông thấy chú lính cao lớn kia khom lưng, xuyên qua làn mưa đạn, lao về phía họ. Khi gần đến nơi, chú ấy bị trúng một viên đạn vào chân, nhưng không màng đến, nghiến răng đứng dậy, chỉ trong vài hơi thở đã có mặt trước mặt họ.

Chú lính có sức khỏe phi thường, kẹp mỗi đứa một bên nách, vừa kéo lê cái chân trúng đạn vừa tập tễnh chạy về phía trước.

Miệng chú ấy lẩm bẩm chửi rủa lũ quỷ Nhật đáng chết.

Đầu ông bị kẹp ngược ra sau nách, nảy lên nảy xuống. Ông thấy máu từ chân chú lính vệt dài theo hướng họ chạy, trong mắt ông chỉ còn lại một vệt máu đỏ tươi kéo dài.

Chẳng biết đã chạy được bao xa, chú lính đặt ông và cậu bé xuống. Túi vải được chú ấy đeo vào cổ cậu bé. Chú lính ôm lấy mặt cậu bé, khóe mắt dính máu nhưng ánh nhìn lại trong trẻo lạ thường.

Chú ấy nói: "Thằng nhóc con, trốn ở đây, có chuyện gì cũng không được ra ngoài."

Ông thấy cậu bé nghiêm túc gật đầu, sau đó bàn tay thô ráp của chú ấy đặt lên vai ông và cậu bé.

Chú lính nhìn ông, nheo mắt cười: "Thằng bé này sợ ngây người rồi." Rồi quay sang cậu bé: "Con là anh, phải bảo vệ em trai này, biết chưa?"

Cậu bé gật đầu lia lịa. Chú lính dùng sức đẩy vai họ vào trong hốc cỏ, rồi nhặt cỏ và cành cây khô che kín miệng hốc.

Chú lính quỳ rạp trước miệng hốc, giọng nói khàn đặc, nặng nề: "Thằng nhóc con... đợi cha về." Tiếp đó là tiếng bước chân xa dần.

Khi ấy ông không hiểu, những lời nói đứt quãng của chú lính. Sau này, nhiều lần hồi tưởng lại, ông mới nhận ra đó là lời từ biệt trong cái chết, nhưng vẫn ẩn chứa một chút hy vọng.

Ông và cậu bé ngồi xổm trong đống cỏ. Tiếng la hét đánh nhau mơ hồ dần lắng xuống. Trong hốc cỏ tối đen, Tiểu A Ca ôm chặt lấy ông. Chẳng bao lâu sau, lại có tiếng bước chân tìm kiếm vẩn vơ bên ngoài hốc cỏ.

Vòng tay Tiểu A Ca ôm ông bắt đầu siết chặt. Bên ngoài, tiếng nói chuyện mang âm điệu quen thuộc của quân xâm lược.

Bất ngờ, một viên đạn bắn thẳng vào hốc cỏ. Ông cảm thấy cơ thể Tiểu A Ca co rúm lại, run rẩy. Trên đỉnh đầu ông có cảm giác dính nhớp, ngẩng lên nhìn, đó là máu tươi từ khóe miệng Tiểu A Ca chảy xuống làm ướt tóc ông.

Giây tiếp theo, lưỡi dao Nhật sáng loáng, sắc bén đâm vào bắp chân Tiểu A Ca. Một tia sáng lọt vào hốc cỏ. Bên ngoài, tiếng cười của lính Nhật không ngớt. Ông thấy con dao nhọn trong chân Tiểu A Ca xoay tròn, khuấy động, màu đỏ chói mắt tràn ngập tầm nhìn của ông. Chất lỏng dính nhớp trên đầu ngày càng nhiều.

Ông ngẩng đầu, sợ hãi há miệng định kêu lên, nhưng Tiểu A Ca phun ra một dòng máu đỏ sẫm, đặc quánh hơn, bắn tung tóe lên mặt ông. Tiểu A Ca vội bịt miệng ông lại, khẽ lắc đầu, ánh mắt trong veo, kiên định, không hề run sợ, không hề e ngại, không hề khiếp đảm.

Ông run rẩy mở túi vải chú lính để lại, mò ra một chiếc khăn tay. Ngón tay run lẩy bẩy, ông che mắt Tiểu A Ca lại, rồi ấn cơ thể cậu bé vào sâu nhất trong hốc cỏ.

Với chút ánh nhìn cuối cùng qua lớp khăn che mắt, ông thấy Tiểu A Ca lại phun ra một ngụm máu tươi nữa, máu bắn tung tóe lên mặt, lên người, lên chân ông...

Bị bịt mắt, ông chỉ còn lại thính giác. Nhưng ông không nghe thấy bất kỳ âm thanh nào từ Tiểu A Ca đang kề sát phía sau, chỉ có tiếng quân xâm lược khát máu, đoạt mạng vang vọng bên ngoài hốc cỏ.

Ngay sau đó, lại một tiếng súng "đoàng" vang lên. Ông nghe thấy tiếng một vật nặng đổ sụp xuống đất.

Một lát sau, hốc cỏ bị vén ra. Đó là tiếng nói quen thuộc của những người lính Hồng quân.

"Nhanh lên, ở đây còn hai đứa trẻ!"

"Mau! Đứa bé này bị thương rồi, trúng một phát đạn vào lưng."

"Chân nó bị dao đâm, nguy hiểm quá, xương cũng bị chém rồi."

"Từ từ thôi, từ từ thôi, cẩn thận vết thương."

Ngay sau đó, tấm vải che mắt ông được gỡ ra. Ông thấy Tiểu A Ca nằm trên một chiếc cáng tạm bợ. Ông không còn nhìn rõ mặt cậu bé nữa, chỉ thấy đôi mắt sáng ngời của cậu bắt đầu mất tiêu cự, dần tan rã.

Ông dường như thấy Tiểu A Ca khẽ cong khóe môi về phía mình, như muốn nói với chú lính: "Cha ơi, cha xem, con đã bảo vệ được em trai rồi."

Tấm vải được nhét vào túi ông. Quân tiếp viện vừa đến nhận ra ông: "Đây chẳng phải là A Hùng, con trai của Sư trưởng sao? Mau đưa cậu bé đi!"

Ông bị người ta đưa đi. Đồng thời, ông nghe thấy người lính Hồng quân đang khiêng Tiểu A Ca nói: "Đứa bé này, sống hay chết là do số mệnh."

Ông được Hồng quân đưa về nơi quân đội của cha ông đang rút lui, còn Tiểu A Ca được đưa đến điểm điều trị gần nhất để cứu chữa.

Kể từ đó, ông và Tiểu A Ca – người mà ông chỉ gặp một lần duy nhất, cũng là lần cuối cùng, chưa từng nói với nhau một lời nào nhưng đã dùng cả mạng sống để bảo vệ ông – vĩnh viễn mất liên lạc.

Khắp chân trời góc bể, không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào.

Hai ngày sau, ông hội ngộ với cha. Ông cầu xin cha quay lại bãi cỏ đó, ôm ấp hy vọng rằng có lẽ chú lính kia vẫn còn sống.

Cha ông dẫn một đội Hồng quân quay lại con đường cũ. Thật đáng tiếc, toàn bộ lính hậu cần của ông và đơn vị hậu cần của chú lính đều đã hy sinh. Khi họ tìm thấy thi thể chú ấy, đôi mắt trong trẻo, kiên cường của chú vẫn mở trừng trừng, trên bụng cắm năm sáu lưỡi quân đao của quân Nhật, chân tay bị chém đến biến dạng.

Cha ông quỳ xuống trước mặt chú ấy: "Đại ca, cảm ơn anh, đã cứu con tôi."

Bàn tay cha ông đặt lên mắt chú lính, khẽ vuốt xuống. Khi bàn tay rời đi, đôi mắt chú ấy đã nhắm lại.

Thi thể chú lính được cha ông thu liệm cẩn thận, tìm một nơi gần đó để an táng. Sau này, chú được cải táng về Nghĩa trang Liệt sĩ Kinh Đô ngày nay.

Hàng năm, vào ngày mùng Một tháng Tám, cả gia đình ông đều đến Nghĩa trang Liệt sĩ tảo mộ. Trên bia mộ khắc dòng chữ "Liệt sĩ Vô danh".

Sau này, cha ông phái người đi dò la tung tích Tiểu A Ca, nhưng không thu được kết quả nào. Trên đường rút lui, mọi người đã phải di chuyển qua nhiều nơi.

Giữa biển người mênh mông, chẳng còn dấu vết.

Đề xuất Huyền Huyễn: Dục Cầu Tiên
BÌNH LUẬN