Thôi được, được lắm, song con cùng Trường Thanh chúng nó lên núi, ta nào an lòng cho đặng. Trên núi nào thiếu rắn rết, thú dữ! Bảo vật con muốn tìm, há phải vào chốn thâm sơn cùng cốc? Nếu phải vào sâu trong núi, thôi thì bỏ đi. Nguy hiểm khôn lường. Lữ thị nào cưỡng nổi lời nài nỉ của Cố Thành Ngọc, đành phải ưng thuận.
Chẳng xa đâu, chỉ hơi vào trong một chút, nơi ngoại sơn mà thôi.
Vậy để cha con đi cùng cho yên dạ! Lữ thị vẫn chưa nguôi lo lắng.
Cố Thành Ngọc đành phải vâng lời. Đến khi cha chàng đi cùng, chàng sẽ tìm cơ hội mà gieo nhân sâm xuống đất. Chàng đã từng thử qua, vật trong không gian có thể dùng ý niệm mà lấy ra, đặt vào nơi định sẵn bên ngoài, dĩ nhiên phải ở gần kề quanh chàng.
Lữ thị bước ra khỏi chính ốc, vọng vào gian nhà lớn mà gọi lớn: Đại Nha, con ra ruộng gọi cha con về, ta có việc cần gặp.
Nhà họ Cố bởi mỗi ngày chỉ dùng hai bữa. Nếu vào mùa nông bận, họ sẽ ra đồng làm một lát, đợi mặt trời lên cao ba sào mới về dùng bữa sáng, tối về lại ăn bữa tối, giữa chừng đói bụng thì gặm hai cái bánh ngô. Lúc nông nhàn, bánh ngô ăn thêm cũng chẳng còn, chỉ có ngày hai bữa mà thôi. Dĩ nhiên, Cố Thành Ngọc là kẻ thường được mẹ ưu ái nấu riêng. Đôi khi mẹ chàng trông chừng thì chàng ngoan ngoãn ăn hết, hiếm khi mẹ chàng có việc vắng nhà, chàng lại đem cho mấy đứa nhỏ hơn.
Dân làng đều ăn uống như vậy. Nhà nông đất ít, triều đại này mỗi mẫu ruộng phải nộp ba phần mười lương thực, mà sản lượng mỗi mẫu lại chẳng cao. Phần còn lại thì xay thành lương thực thô, chỉ đủ lấp bụng lưng lửng, phần lớn mỗi bữa đều phải thêm rau dại.
Nhà Triệu lão gia trong thôn thì lại được ăn ba bữa. Kẻ từng đi làm thuê về đều kể rằng, cơm nước của chủ nhà quả là tinh tươm, tươm tất. Đáng tiếc Triệu lão gia tuy giàu có nhưng lại keo kiệt vô cùng. Những nhà ít đất trong thôn đều tá điền ruộng nhà ông ta, tô thuế đều là năm phần mười. Dẫu vậy, vẫn còn không ít nhà tá điền đấy! Nhà họ Cố có mười hai mẫu ruộng đã là nhiều rồi. Cố lão gia dù trong lúc khốn khó đến mấy, cũng chưa từng nghĩ đến việc bán đất, ông nói đó là cái vốn để mà sống.
Kéo lại dòng suy nghĩ đã trôi xa, thấy Cố lão gia vác nông cụ từ ruộng về, bước vào cổng viện.
Lữ thị mời Cố lão gia vào nhà, kể lại chuyện Cố Thành Ngọc nằm mộng thấy bảo vật. Cố lão gia nghe xong cũng lấy làm khó tin.
Ông kéo Lữ thị sang một bên mà thì thầm: Nàng à, Tiểu Bảo nhà ta thuở nhỏ đã có dị tượng. Biết đâu chừng bảo vật ấy là thật chăng? Thôi thì cứ đi xem thử, thằng bé con nào biết nói dối. Nếu chẳng có, coi như đi một chuyến uổng công, nếu có, chẳng phải là tốt nhất sao?
Lữ thị vốn dĩ có chút chẳng muốn. Nay nghe Cố lão gia nói vậy, lại thấy có lý. Liền dặn dò họ dùng vải buộc chặt ống quần, phòng rắn rết, lại mang theo liềm và gùi.
Bước trên con đường nhỏ dẫn lên núi Thượng Lĩnh. Gió sớm mùa xuân vẫn còn se lạnh. Hạt sương trên đám cỏ ven đường vẫn chưa tan. Cố Thành Ngọc cảm thán không khí thời cổ đại quả là trong lành. Đồng thời cũng vì sắp giải quyết được nỗi khó khăn của nhà họ Cố mà lòng dạ khoan khoái. Người làm việc trên đồng đã đông đúc hơn, trên đường gặp không ít người quen.
Cố nhị ca, đây là dẫn Tiểu Bảo lên núi đó ư? Cố lão gia cùng họ vừa đến chân núi thì gặp Vương thâm tử. Cố Thành Ngọc có thiện cảm với Vương thâm tử, đây là một phụ nhân chất phác, nhiệt tình.
Ừa! Lên núi cắt chút rau lợn, lại nhặt thêm củi khô, này, Tiểu Bảo cứ đòi theo cho bằng được. Cố lão gia đã sớm tìm được lý do lên núi. Chào hỏi xong xuôi, họ đã đến chân núi.
Lúc này trên núi cây cối rậm rạp. Nơi có đường thì dễ đi, nơi không người qua lại thì đầy gai góc, cỏ dại. Cố Thành Ngọc ngó nghiêng khắp chốn. Nhân sâm này dĩ nhiên phải mọc nơi thâm sơn, nhưng họ nào thể vào trong. Vùng ngoại vi núi chắc chắn không được, người qua lại đông đúc, mọc được nhân sâm mới là chuyện lạ. Đi qua vùng ngoại vi, họ tiến vào phía trong núi.
Tiểu Bảo, không thể đi nữa đâu, trong đó thật sự có thú dữ đấy. Năm kia, Trương thợ săn ở thôn Hạ Lĩnh vào thâm sơn rồi chẳng thấy quay về. Đó là một tay lão luyện rồi, nếu không phải vợ hắn mắc bệnh, hắn cũng chẳng nghĩ đến việc vào sâu bên trong. Ai ngờ lại mất mạng? Để lại mẹ góa con côi, chịu đủ mọi sự ức hiếp của tộc nhân, ngay cả ruộng đất cũng bị Trương gia đại huynh chiếm đoạt, cái tên Trương gia đại huynh đó quả là đồ chẳng ra gì. Cố lão gia thở dài một tiếng, lại ngăn Cố Thành Ngọc đang muốn đi sâu hơn nữa.
Cố Thành Ngọc quan sát bốn phía. Từ một khe hở đầy gai góc, chàng thấy một nơi kín đáo. Nơi này cỏ dại chẳng nhiều, bên phải lại có một cây đại thụ đã khô héo. Cây đại thụ rất lớn, nhưng đã mục ruỗng đôi phần, đổ rạp xuống, trên thân mọc đầy rêu xanh. Đến gần mà xem, mảnh đất này địa thế bằng phẳng, trên đó mọc một vạt lớn những đóa dã hoa vàng. Cố Thành Ngọc xem xét một lượt, thấy mảnh đất này quả là thích hợp.
Tiểu Bảo, bảo vật con nói ở đâu vậy? Cách đây xa hay gần? Nếu phải vào thâm sơn, thôi thì bỏ đi! Đợi sau này có cơ hội hẵng đến lấy. Mà này, đó là thứ bảo vật ra sao? Người trong mộng chẳng nói cho con hay sao? Cố lão gia có chút tò mò, đồng thời cũng lo lắng bảo vật ở nơi sâu thẳm trong núi, e rằng có mạng lấy mà chẳng có mạng dùng!
Cha, đến rồi, chính chỗ đó, cha xem, nơi mọc đầy những đóa hoa vàng nhỏ kia kìa. Cố Thành Ngọc bảo Cố lão gia dùng liềm phát quang gai góc, rồi đi về phía cây khô bên trong. Cách cây khô chừng hai trượng, chàng thầm dùng ý niệm mà chôn nhân sâm xuống đất, chỉ để lại những quả đỏ tươi lộ ra bên ngoài.
Đến gần, Cố Thành Ngọc vô tình liếc nhìn những đóa hoa vàng nhỏ. Ơ? Chẳng phải đây là kim ngân hoa sao? Vừa khéo hôm qua chàng có đọc trong y thư. Kim ngân hoa còn gọi là nhẫn đông, hoa này từ xưa đã được ca tụng là lương dược thanh nhiệt giải độc. Tính nó cam hàn khí thơm, cam hàn thanh nhiệt mà chẳng hại vị, hương thơm thấu đạt lại có thể trừ tà. Kim ngân hoa vừa có thể tuyên tán phong nhiệt, lại giỏi thanh giải huyết độc, dùng cho các chứng nhiệt bệnh như thân nhiệt, phát chẩn, phát ban, nhiệt độc sang ung, yết hầu sưng đau, đều có hiệu quả rõ rệt.
Đây há chẳng phải là một niềm vui bất ngờ sao? Vạt hoa này rất nhiều, mọc san sát. Nếu hái hết xuống có lẽ được hơn trăm cân, phơi khô đi, ước chừng còn khoảng bốn năm chục cân. Đến lúc đó đem ra hiệu thuốc bán, xem thử đáng giá bao nhiêu tiền.
Cha, thứ hoa này có thể bán lấy tiền đó! Đến lúc đó gọi Trường Thanh cùng mọi người đến hái. Cố Thành Ngọc định thừa lúc này mà hái cho xong. Hoa đã đều chín rộ, nếu đợi lâu, qua kỳ hoa, kim ngân hoa sẽ chẳng phơi được bao nhiêu trọng lượng, mà phẩm chất phơi ra cũng chẳng tốt. Gọi người nhà cùng hái, đông người thì sức mạnh lớn.
Cái gì? Đây chính là bảo vật con nói ư? Đây chẳng phải dã hoa sao? Cố lão gia có chút thất vọng, dã hoa khắp nơi đều có, dẫu cho thứ này mọc đẹp đẽ hơn đôi chút, nhưng nó vẫn là dã hoa mà thôi!
Cha, đây nào phải bảo vật, song, thứ này cũng có thể bán lấy tiền đó! Người ta ở hiệu thuốc đều thu mua, đây là kim ngân hoa. Lần trước con đi qua cổng viện nhà Lý lang trung, thấy nhà ông ấy phơi thứ này, thứ này phơi khô thật sự có thể bán lấy tiền đó! Cố Thành Ngọc sợ cha già chẳng tin, đành phải nhắc đến Lý lang trung.
Họ đã tiến gần vào phía trong. Nơi đây vẫn còn khá kín đáo, phần lớn sẽ chẳng bị người khác phát hiện. Bởi vậy Lý lang trung thường xuyên lên núi hái thuốc có lẽ cũng chưa phát hiện ra nơi này, nên mới giữ lại được vạt kim ngân hoa rộng lớn đến vậy.
Nếu quả thật đáng giá, vậy thì hãy đợi lát nữa hẵng đến hái, sợ bị người khác thấy mà chẳng giữ được. Chúng ta chiều nay ăn bữa tối sớm, giờ Dậu lại đến hái, tất cả đều đi, đông người hái sẽ nhanh, hái xong thừa lúc trời tối mà về nhà, sẽ chẳng bị người khác phát hiện.
Vậy chúng ta bây giờ hãy đào bảo vật trước đi! Cố Thành Ngọc ngồi xổm xuống, nhìn quả nhân sâm đỏ tươi lộ ra bên ngoài. Cầm lấy liềm, cẩn thận từng chút mà xới đất bên cạnh lên.
Cố lão gia nghe xong một trận kích động, cuối cùng cũng sắp đào được bảo vật rồi. Ông cũng ngồi xổm xuống. Chỉ thấy tiểu nhi tử đang chổng mông, đào một thứ quả màu đỏ. Đây là bảo vật gì vậy? Cố lão gia lại ngẩn người.
Đề xuất Xuyên Không: Khoái Xuyên: Địa Phủ Cầu Ta Đến Nhân Gian Tiêu Trừ Chấp Niệm